Đầu năm 1954, theo chủ trương của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, để giữ bí mật và tạo yếu tố bất ngờ, Bộ Chỉ huy quyết định không dùng xe cơ giới, mà hoàn toàn dựa vào sức người kéo pháo vượt núi, băng rừng. Hơn 5.000 chiến sĩ và dân công từ Đại đoàn 308 cùng các đơn vị công binh, pháo binh đã bắt tay mở đường giữa núi non hiểm trở, nơi chỉ cách vị trí địch vài cây số.
Trong giá rét của núi rừng Tây Bắc, mồ hôi vẫn đổ như mưa. Con đường kéo pháo dài hơn 15 km, rộng chỉ chừng 3 m được hình thành bằng tay người, bằng cuốc xẻng và niềm tin chiến thắng. Từ km70 đường Tuần Giáo, những khẩu pháo nặng hơn 2 tấn được tách khỏi xe, kéo bằng dây tời, từng bước bò lên dốc, vượt suối. Có những đoạn dốc đến mức phải huy động gần 100 người cho một khẩu pháo. Trong gian khổ ấy, bao tấm gương dũng cảm đã ngã xuống – pháo thủ Nguyễn Văn Chức, Tô Vĩnh Diện... những người đã lấy thân mình chèn pháo để cứu đồng đội, giữ vững đội hình.
Khi nhận lệnh “kéo pháo ra” để thực hiện phương châm “đánh chắc, tiến chắc”, bom đạn địch lại trút xuống dữ dội hơn. Nhưng không một ai buông tay, không một khẩu pháo bị bỏ lại. Sau 8 ngày đêm quên mình trong mưa bom, lửa đạn, toàn bộ pháo được đưa ra an toàn. Đến giờ phút lịch sử 13/3/1954, pháo ta đồng loạt khai hỏa, mở màn Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Kỳ tích kéo pháo đã trở thành biểu tượng bất diệt của ý chí “tất cả cho Điện Biên Phủ”, của sức mạnh con người Việt Nam dám vượt lên mọi giới hạn, biến điều tưởng như không thể thành chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.”